Ngôn ngữ Viet Nam English
Sản phẩm mới
  • OVOLEAD
    CẢI THIỆN NĂNG SUẤT TRỨNG VÀ SẢN XUẤT GIỐNG
  • HCĐB
    Heo con lớn nhanh, da hồng, lông mượt, nở mông,...
  • B.COMPLEX – ...
    - Kích thích thèm ăn, trang trọng...
  • GLUCAN – C
    - Tăng cường miễn dịch, chống stress - Phòng bệnh tai...
  • ROMILK
    - Sữa bột chuyên dùng cho heo con - Thay thế...
  • Y – MOS
     Y –MOS là thành phần bổ sung thức...
  • Nutrase Xyla
      Men tiêu hóa giúp tăng năng...
  • FREE TOX
    Chất hấp thụ độc tố nấm mốc đa thành phần...
  • Manyang p
     Manyang p. là chất phụ gia thức ăn có...
  • CBN
    Hoạt chất tăng trưởng phi kháng sinh dùng cho...
  • COZYME 10X
    Men tổng hợp hỗ trợ tiêu hóa giúp...
  • CHOCOLATE ...
    Nguồn nguyên liệu kẹo đường Chocolate đặc biệt...
Nhận bản tin
Vui lòng nhập email để nhận bản tin
Kiến thức chăn nuôi -> Nuôi trồng Thủy sản
Bệnh gạo trên cá tra

Trong số các bệnh thường gặp trên cá tra như gan thận mủ, xuất huyết, trắng gan trắng mang,... thì bệnh gạo có tỉ lệ chết không cao nhưng cá sẽ kém ăn, làm giảm năng suất và chất lượng thịt, do đó các nhà máy chế biến thủy sản từ chối mua hoặc hạ thấp chất lượng thương phẩm để mua giá rất thấp.

Bệnh do ký sinh trùng có hình thái bào nang tròn hoặc bầu dục, màu trắng sữa giống hạt gạo nên người nuôi gọi là bệnh “Gạo”

I. Nguyên nhân gây bệnh và đường lây lan:

- Cá tra nhiễm “gạo” là đang nhiễm 2 loài nguyên sinh động vật có khả năng hình thành bào tử là vi bào tử trùng Microsporidia và thích bào tử trùng Myxobolus sp (Hồ Hữu Trọng, 2010; Lê Thu Hồng, 2010; Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2011).

- Các bào tử có thể sống lâu trong môi trường nước và bùn đáy ao, nên khả năng cá nuôi bị nhiễm bào tử trùng rất cao. Bào tử trong môi trường nước có thể chui qua da, mang hoặc theo đường tiêu hóa vào ký sinh trong các cơ quan nội tạng của cá như dạ dày, ruột, gan... đặc biệt vùng cơ là vị trí ký sinh ưa thích của chúng. Sau một thời gian ký sinh bào tử bắt đầu sinh sản tăng nhanh số lượng và vùng nhiễm bệnh sẽ bị thoái hóa sinh ra một lớp màng bao lấy các bào tử và hình thành bào nang. Bào tử thành thục có thể ký sinh trong cơ từ giai đoạn cá giống đến cá thịt hoặc có thể phá vỡ bào nang chui ra môi trường nước và tiếp tục xâm nhiễm vào cá thể khác để hình thành một chu kỳ sống mới.

- Ngoài ra, bào tử có thể phát tán ra môi trường nước từ cá nhiễm "gạo" chết nằm dưới đáy ao, các loại chim ăn cá bệnh cũng phóng thích bào tử tự do trong phân vào môi trường nước làm lây lan bệnh trên diện rộng, hoặc có thể lây từ mẹ sang con.

II. Mùa vụ phát bệnh:

- Cá tra thường phát bệnh từ tháng 8 đến tháng 11 hằng năm ở các tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long ( ĐBSCL). Thời gian này, lũ về sẽ mang theo mùn bã hữu cơ phân hủy và cuốn theo các mầm bệnh và thuốc bảo vệ thực vật từ nội đồng ra kênh rạch. Cùng với nhiệt độ nước thường xuyên xuống thấp (do mưa kéo dài), tạo điều kiện vi sinh vật gây bệnh phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cá nuôi.

- Khi thời tiết thay đổi làm cá bị stress, bỏ ăn, suy yếu và dễ mắc các dạng bệnh ký sinh trùng và nhiễm khuẩn với mức độ cảm nhiễm cao. Cá cũng có thể ủ bệnh trong thời gian cá giống và thường phát bệnh khi nhiệt độ hạ thấp và môi trường nước ô nhiễm ở giai đoạn từ sau 2 tháng nuôi đến lúc thu hoạch.

III. Tỉ lệ cảm nhiễm:

Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng và Đặng Thị Hoàng Oanh (2012) thì tỉ lệ nhiễm bào nang trên cá giống 72.4%, cá thịt 92.30%. Bào nang nhiễm cao trên mang, cơ cá, các cơ quan nội tạng khác thì số lượng bào nang nhiễm thấp hơn:

- Bào nang của thích bào tử trùng Myxobolus sp hầu như ký sinh ở nhiều cơ quan trong cơ thể cá nhiều nhất là trên cung mang, kết quả phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng ctv., (2008) khi cho rằng loài Myxobolus sp. xuất hiện quanh năm với cường độ nhiễm cao.

- Bào nang của vi bào tử trùng Microsporidia nhiễm trong cơ khá cao chúng tạo thành những hạt “gạo” dày đặc trong cơ cá làm cá gầy yếu, chậm lớn, giảm chất lượng thịt thương phẩm hoặc làm cá chết nếu không phát hiện và có biện pháp điều trị kịp thời.

- Một số khác nhiễm đồng thời bào nang của hai loại bào tử Myxobolus sp Microsporidia, kết quả này không khác biệt so với kết quả nghiên cứu của Hồ Hữu Trọng (2010). Số lượng bào nang nhiễm phụ thuộc vào kích cỡ cá và cơ quan ký sinh, bào nang nhiễm ở mang và nội tạng ở cá thịt nhiều hơn cá giống và tập trung nhiều ở cá có dấu hiệu vàng da, xuất huyết, phù mắt…

IV. Dấu hiệu bệnh tích:

- Quan sát bên ngoài: cá bệnh “gạo” không có biểu hiện rõ ràng, cá bệnh có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ dội trên mặt nước, trên da, mang có nhiều nhớt, cá chết rải rác hàng ngày với số lượng ít. Bên ngoài thấy da lốm đốm mất màu, một số cá da sần, trên da có những chấm đen tròn hay vệt như dính mực, tập trung nhiều ở vùng da mỏng như vùng lườn, bụng. Vùng da bụng bị thủng lổ nhỏ li ti hoặc có một số lổ rất lớn, các tổn thương này không kèm vết xuất huyết.

- Khi mổ khám cá bệnh: nội tạng cá ít biến đổi, gan thận bình thường, túi mật hơi căng, dịch mật màu nhợt nhạt, một số ít trong xoang bụng có dịch. Nang "gạo" xuất hiện trong cơ cá là các vệt dài 0.5 – 3 mm màu trắng đục, trong chứa nhiều chất lỏng sệt màu trắng sữa (dễ vỡ) nếu gạo mới hình thành, hoặc nốt gạo có viền bờ rõ ràng nhờ lớp vỏ bọc kitin làm hạt gạo già trở nên cứng có màu vàng nhạt (khó vỡ) nằm dọc theo cơ vùng sống lưng cá. Một dạng khác "gạo" là các nang tròn, hình hạt gạo hay bầu dục, kích thước 1 - 3 mm xuất hiện trên ruột, màng ruột, màng dạ dày. Khi cá bị bệnh nặng bào nang vi bào tử có thể hình thành trên các nội quan như gan, thận, ống mật làm cá suy nhược và chết. Cá nhiễm gạo nặng chết có dấu hiệu của bệnh gan thận mủ hay xuất huyết dễ gây nhầm lẫn cho người nuôi.

Hình 1: Nốt gạo hình thành trên cơ cá

Hình 2: Nốt gạo hình thành trên màng ruột

V. Phòng bệnh:

Thích bào tử trùng hoặc vi bào tử trùng kí sinh trong cơ cá được bao bọc bởi một lớp vỏ màng nhầy bằng chất kitin của bào nang và lớp mô liên kết do cơ thể của ký chủ tiết ra để cô lập bào nang, nên khả năng xuyên thấu của thuốc qua bào nang rất hạn chế. Do đó, việc phòng bệnh cần được ưu tiên thực hiện:

- Cải tạo ao nuôi thật kĩ trước khi thả cá nuôi tránh mầm bệnh còn xót lại dưới đáy ao. Khi cải tạo ao phải khử trùng bằng vôi nung CaO liều cao, phơi đáy ao 3-7 ngày.

- Cá giống trước khi thả phải mổ thâm khám kiểm tra có nhiễm gạo hay không, nếu phát hiện có thì không nên thả nuôi

- Hút bùn đáy ao định kỳ 2 tháng/lần đối với cá dưới 300g/con và 1 tháng/lần đối với cá trên 300g/con. Sau mỗi lần hút bùn đáy ao cần kết hợp xử lý nước cho nước ao trong trở lại mới cho ăn, bởi vì nếu cá phải sống và bắt mồi ở vùng có tích tụ nhiều chất thải và khí độc sẽ tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể cá qua đường tiêu hóa.

- Mổ thâm khám cá định kì để kịp thời phát hiện cá có biểu hiện bất thường, định kì tẩy giun sán cho cá nuôi theo đúng loại thuốc, liều lượng và liệu trình. Cần bổ sung Sorbitol và Vitamin C thường xuyên vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho cá.

- Vào những ngày trời se lạnh hay môi trường xấu thì cần giảm lượng cho ăn và cho cá ăn vào thời điểm nhiệt độ nước ao có sự cân bằng giữa tầng mặt và tầng đáy (lúc trời đứng bóng về chiều).

- Thực hiện lắng, lọc và xử lý nước cấp để hạn chế mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi. Thường xuyên kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng nước thay đổi theo ngày đêm, thay 10-15% thể tích nước trong ao mỗi ngày.

- Không nên nuôi cá với mật độ quá dày (tốt nhất từ 20 30con/m2), trong trường hợp cá nuôi bị bệnh, phải chẩn đoán đúng tác nhân gây bệnh để có biện pháp điều trị thích hợp, không được tùy tiện sử dụng kháng sinh và các hoá chất, nhất là những loại nằm trong danh mục cấm hoặc hạn chế sử dụng mà Nhà nước đã qui định.

- Định kỳ 10-15 ngày, để phòng bệnh cho cá và khử trùng nước ao, dùng vôi nông nghiệp hòa nước và tạt đều khắp ao. Với xu hướng hạn chế ô nhiễm môi trường do sử dụng các hoá chất độc hại, thì việc dùng muối ăn (NaCl) và vôi nông nghiệp (CaCO3) để phòng ngừa bệnh cho cá tra nuôi được khuyên dùng là an toàn và hiệu quả nhất.

- Định kỳ 1 lần/tháng lấy mẫu kiểm tra các chỉ tiêu thủy lý, thủy hoá, mầm bệnh trong ao xử lý nước cấp, ao nuôi và lấy mẫu cá (cá bệnh, cá yếu) để xét nghiệm tác nhân gây bệnh.

 Phòng kỹ thuật - Marketing - Công ty TNHH Nhân Lộc