Ngôn ngữ Viet Nam English
Sản phẩm mới
  • OVOLEAD
    CẢI THIỆN NĂNG SUẤT TRỨNG VÀ SẢN XUẤT GIỐNG
  • HCĐB
    Heo con lớn nhanh, da hồng, lông mượt, nở mông,...
  • B.COMPLEX – ...
    - Kích thích thèm ăn, trang trọng...
  • GLUCAN – C
    - Tăng cường miễn dịch, chống stress - Phòng bệnh tai...
  • ROMILK
    - Sữa bột chuyên dùng cho heo con - Thay thế...
  • Y – MOS
     Y –MOS là thành phần bổ sung thức...
  • Nutrase Xyla
      Men tiêu hóa giúp tăng năng...
  • FREE TOX
    Chất hấp thụ độc tố nấm mốc đa thành phần...
  • Manyang p
     Manyang p. là chất phụ gia thức ăn có...
  • CBN
    Hoạt chất tăng trưởng phi kháng sinh dùng cho...
  • COZYME 10X
    Men tổng hợp hỗ trợ tiêu hóa giúp...
  • CHOCOLATE ...
    Nguồn nguyên liệu kẹo đường Chocolate đặc biệt...
Nhận bản tin
Vui lòng nhập email để nhận bản tin
Kiến thức chăn nuôi -> Chăn nuôi Gia cầm
[THÚ Y] Viêm Ruột Hoại Tử Ở Gà – Necrotic Enteritis Clostridum Perfingens

Viêm ruột hoại tử là một bệnh truyền nhiễm thường xuất hiện kế phát sau các bệnh nguyên phát hoặc stress do vi khuẩn Gram dương Clostridium perfingens gây nên.

Bệnh có tên khoa học : tiếng Anh Necrotic Enteritis (NE).

Tiếng Latinh: Enteritis Necroficans (EN).

Clostridium perfingens trong lòng ruột

·   Bệnh có thể xuất hiện ở gà với mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở gà sau 3 tuần tuổi trở lên.

·   Bệnh gây thất thoát khoảng 4 – 8% số đầu con, giảm khả năng tăng trọng, tiếu tốn thức ăn cho 1kg tăng trọng cao …

1. Tác nhân gây bệnh

Vi khuẩn Clostridium Perfingens là một loại vi khuẩn yếm khí sống trong đường ruột và ít gây bệnh cho gà nếu không có các yếu tố thúc đẩy.

Các yếu tố nguy cơ stress có hại làm thay đổi môi sinh trong đường ruột như cầu trùng, giun sán, rối loạn tiêu hóa, do gà quá đói, quá khát, thay đổi đột ngột nguồn thức ăn, nước uống, thức ăn bị ôi thiu, nấm mốc, mật độ gà quá cao, chuồng trại ẩm ướt, chất độn chuồng không sạch không khô, cắt mỏ, chuyển chuồng, san đàn, tiêm phòng… Những lý do đórất có lợi cho việc Clostridium phát triển và gây bệnh. Trong các trường hợp này bệnh chỉ phát ở dạng lẻ tẻ.

Nguy hiểm hơn là một số chủng Clostridium Perfingens có độc lực lớn sống và ô nhiễm môi trường bên ngoài chuồng, khi các dụng cụ thiết bị, con người … vì lý do nào đó mang mầm bệnh vào đàn gà thì bệnh xảy ra với quy mô lớn và bao giờ cũng ở dạng cấp tính. Điều này khác với đặc điểm dịch tễ của bệnh tụ huyết trùng.

2. Cơ chế sinh bệnh

Cũng giống như E. coli vi khuẩn Clostridium Perfingens ký sinh bình thường trong đường ruột mà không gây bệnh, chúng tham gia vào quá trình lên men, phân hủy thức ăn giúp cho gà đồng hóa tốt và tăng trưởng tốt. Thế nhưng khi có các bệnh hoặc các yếu tố thúc đẩy (đã nêu ở trên) làm cho nhu động đường ruột thay đổi và Clostridium có điều kiện sinh sản nhanh, phá vở thế cân bằng vi sinh có lợi cho chúng. Trên cơ sở của rối loạn tiêu hóa, hoặc các bệnh cầu trùng, giun sán, …đã phá vở cấu trúc niêm mạc ruột tạo điều kiện cho Clostridium bám vào lông mao niêm mạc ruột gây viêm xuất huyết hoại tử ruột. Chúng không dừng ở đây mà tiếp tục vào đường huyết gây nên hiện tượng nhiễm trùng máu. Trong môi trường chảy máu chúng không thể tồn tại được lâu, xác chết của chúng được phân hủy và giải phóng ra nội độc tố làm cho gà chết nhanh hơn, bệnh xảy ra cấp tính hơn.

3. Triệu chứng bệnh

Bệnh thường phát ra ở thể cấp tính hoặc quá cấp tính. Trong thể mãn tính triệu chứng lâm sàng không điển hình. Gà chậm lớn, giảm cân, trong khi vẫn ăn uống bình thường và bị chết do gầy.

Những gà có tiền bệnh như cầu trùng, giun, sán hoặc căn nguyên đưa từ môi trường bên ngoài vào … Bệnh diễn biến rất nhanh, gà chết trong vòng 1 giờ và nhiều trường hợp các cán bộ kỹ thuật bỏ qua bệnh NE và cho đó là gà chết do cầu trùng hoặc tụ huyết trùng. Gà bệnh giảm ăn, chậm chạp, ỉa phân khô có màu đen, đôi khi lẫn máu và nhầy gần giống triệu chứng bệnh Cầu trùng. Gà hay nằm sấp gục đầu, xã cánh, không thể tự đứng và không thể đi lại được. Tỷ lệ chết trong khoảng 5- 25%.

Những trường hợp bệnh phát ra do các yếu tố stress khác thì thấy lác đác 1 số gà đột nhiên thâm tím vùng đầu mào, tích và các vùng da không hoặc ít lông ở vùng đầu rồi co dật động kinh hoặc co cứng lại và chết.

4. Mổ khám bệnh tích

- Xác gầy ốm.

- Niêm nạc ruột non sưng phồng, viêm, xuất huyết.

- Trong ruột niêm mạc sưng có dịch màu xanh sau chuyển sang mà nâu. Giai đoạn cuối có chất bựa màu xanh hoặc nâu phủ trên niêm nạc ruột. Lớp phủ này mỏng và bóc ra dễ dàng.

- Tổn thương ở đường tiêu hóa có khác nhau. Đặc biệt ở phần ruột già, chất chứa trong đường tiêu hóa có màu đậm, dính chặt và thối.

- Bệnh viêm loét kéo dài có thể thủng ruột, phân tràn ra ngoài gây viêm dính phúc mạc.

- Hiện tượng nhiễm trùng huyết thể hiện rất rõ. Bệnh tích tập trung ở đường ruột, gan, lách, thận.

 Bệnh tích trong lòng ruột sau khi mổ khám

 

Chất bựa màu xanh hoặc nâu phủ trên niêm nạc ruột.

 

Niêm mạc ruột non sưng phồng.

- Mức độ bệnh do Clostridium perfingens tương ứng với số điểm.

- Niêm mạc đường ruột có nhiều đám đỏ tấy, xuất huyết thành vệt, thành mảng. Rất nhiều trường hợp khi mổ ra đã thấy các vùng viêm hoại tử tạo vết loét hoặc đám loét phủ một lớp màu vàng ngà.

- Gan, lách không to nhưng màu sắc lại thay đổi. Màu của gan có thể thâm hoặc vàng hơn bình thường.Trên bề mặt gan có nhiều điểm lấm tấm hoại tử màu vàng.

- Thân và lách sưng to biến màu, khó quan sát được các điểm hoại tử.

5. Chẩn đoán bệnh

- Bệnh NE rất dễ chẩn đoán trên cơ sở dịch tễ học lâm sàng và giải phẫu bệnh lý học.

- Bệnh xảy ra hoặc rất đột ngột hoặc gắn liền với bệnh tiền phát hoặc với các yếu tố stress. Diễn biến lác đác lẻ tẻ, nhanh, thâm tím vùng đầu, co cứng và chết. Khi mổ bệnh tích tập trung ở đường ruột: Viêm xuất huyết hoại tử ruột và viêm hoại tử gan…

- Bệnh viêm ruột hoại tử cần phân biệt với tụ huyết trùng: Bệnh tụ huyết trùng không có bệnh tích điển hình ở đường ruột, nhưng lại có thêm xuất huyết vành tim, cơ đùi, cơ tim và tích nước bao tim…

6. Điều trị bệnh

- Đối với các trường hợp bệnh NE là bệnh kế phát ta phải đồng thời điều trị bệnh tiền phát.

Ví dụ: Bệnh NE là kế phát của bệnh cấu trùng thì ta phải điều trị cả cấu trùng và NE cùng một lúc

- Nếu bệnh NE do các yếu tố stress thúc đẩy sinh ra bệnh thì trị bệnh kết hợp loại bỏ các yếu tố stress ấy

- Tách riêng những con bị bệnh. Cho gia cầm ăn nhưng thức ăn dễ tiêu hóa.

- Vệ sinh sạch sẽ chuồng trại, thức ăn, nước uống

- Chọn một trong số gốc kháng sinh sau: Lincomycin, Amoxcyclin, Ampicillin, Chlotetracylin, Sulfamide… trộn vào thức ăn theo liều phòng đã được nhà sản xuất khuyến cáo.

 - Nâng cao sức đề kháng của gia cầm, hạn chế stress, chống nắng nóng bằng cách hòa vào nước điện giải, gluco, vitamin K, vitamin C .

Phòng Kỹ Thuật - Marketing - Công ty TNHH Nhân Lộc